Search
en-USvi-VN
Search

Xét nghiệm sinh hóa máu là gì

Thùy Linh Nguyễn

Sinh hóa máu là một xét nghiệm y học thông dụng trong chẩn đoán và theo dõi bệnh lý nội khoa, đồng thời đánh giá toàn bộ chức năng của cơ thể của bạn.

Xét nghiệm sinh hoá rất quan trọng để phát hiện bệnh lý sớm điều trị kịp thời đỡ tốn kém cho bệnh nhân và sớm hồi phục hoàn toàn.Ví dụ như bệnh viêm gan siêu vi B nếu các bạn phát hiện sớm thì điều trị kịp thời đở tốn kém và giảm thiểu biến chứng ung thư.

Dưới đây là bảng liệt kê xét nghiệm thường dùng:

Các xét nghiệm  

1. Xét nghiệm Ure

20. Xét nghiệm FT3, FT4
2. Xét nghiệm Creatinin 21. Xét nghiệm TSH
3. Xét nghiệm ALT & AST 22. Tổng phân tích máu
4. Xét nghiệm GGT 23. Xét nghiệm HDL-C
5. Xét nghiệm Bilirubin (TT, GT, TP) 24. Xét nghiệm LDL-C
6. Xét nghiệm Albumin 25. Xét nghiệm Calci
7. Xét nghiệm protein toàn phần 26. Xét nghiệm Calci ion
8. Xét nghiệm RF  
9. Xét nghiệm cholesterol  
10. Xét nghiệm Glucose  
11. Xét nghiệm Acid uric  
12. Xét nghiệm amylase  
13. Xét nghiệm CK / CK-MB  
14. Xét nghiệm Ferritin  
15. Xét nghiệm sắt huyết thanh  
16. Xét nghiệm Calcitonin  
17. Xét nghiệm T3, T4  
18. HbA1C  
19. Xét nghiệm HbsAg  

1. Xét nghiệm Ure

Urea, còn được gọi là carbamide, là một hợp chất được sản xuất bởi quá trình trình chuyển hóa protein trong cơ thể, khi protein, acid amin, bị phá vở (thoái hóa) sản xuất ra Dioxid carbon (CO 2) và ammonia trong các tế bào, Ammoniac và dioxid carbon được vận chuyển về gan, gan chuyển đổi Ammoniac và dioxid carbon thành Urea, sau đó Urea vào máu được vận chuyển đến thận và được đào thải ra nước tiểu. Urea hòa tan dễ dàng trong nước, nên nước tiểu là một quá trình loại bỏ lượng nitơ hữu hiệu nhất ra khỏi cơ thể. Một người trưởng thành bài tiết mỗi ngày trung bình khoảng 30 gram Urea, chủ yếu qua nước tiểu, nhưng một lượng nhỏ cũng được bài tiết qua mồ hôi.
Mức urê và creatinin được sử dụng để đánh giá chức năng thận và theo dõi bệnh nhân suy thận hoặc những người được lọc thận.

Urea thường được xét nghiệm cùng với creatinine:

  • Nghi ngờ vấn đề về thận,
  • Theo dõi điều trị bệnh thận
  • Theo dõi chức năng thận khi dùng một số loại thuốc điều trị nào đó có ảnh hưởng trên chức năng thận

Ý nghĩa

Bình thường:

- Nồng độ Ure máu: 3,6 – 6,6 mmol/l.
- Nồng độ Ure nước tiểu: 250 – 500 mmol/24h.

Bệnh lý:

- Ure máu tăng cao trong một số trường hợp sau: suy thận, viêm cầu thận mạn, u tiền liệt tuyến.
- Ure máu 1,7 – 3,3 mmol/l (10 – 20 mg/dl) hầu như luôn chỉ ra chức năng thận bình thường.
- Ure máu 8,3 – 24,9 mmol/l (50 – 150 mg/dl) chỉ ra tình trạng suy chức năng thận nghiêm trọng.

2. Xét nghiệm Creatinin

Xét nghiệm này đo lượng creatinine trong máu hoặc nước tiểu của bạn. Creatinine là một sản phẩm chất thải được sản xuất trong cơ bắp từ sự phân hủy của một hợp chất gọi là creatine. Creatine là một phần của chu trình sản xuất năng lượng cần thiết cho cơ. Cả hai creatine và creatinine được sản xuất trong cơ thể với một tốc độ tương đối ổn định. Hầu như tất cả creatinine được bài tiết qua thận, do đó nồng độ trong máu là một biện pháp tốt nhất để biết thận của bạn đang làm việc như thế nào. Số lượng sản xuất phụ thuộc vào kích thước của người và khối lượng cơ của họ. Vì lý do này, nồng độ creatinine ở nam sẽ hơi cao hơn ở phụ nữ và trẻ em.

Kết quả từ một thử nghiệm creatinine máu và nước tiểu creatinine 24 giờ, có thể được sử dụng để tính toán độ thanh thải creatinin.

Xét nghiệm máu creatinine được sử dụng cùng với xét nghiệm Urea, còn được gọi BUN (urea nitrogen Blood) để đánh giá chức năng thận. Cả hai thường xuyên được ra lệnh như là một phần của một bảng kiểm tra sự trao đổi toàn diện chất cơ bản, nhóm kiểm tra được thực hiện để đánh giá chức năng của các cơ quan chính của cơ thể. Creatinin và Urea được sử dụng để kiểm tra sàng lọc những người khỏe mạnh trong các kỳ kiểm tra sức khỏe định kỳ và giúp đánh giá bệnh nhân bị bệnh cấp tính hay mạn tính trong phòng cấp cứu hoặc bệnh viện. Nếu các xét nghiệm creatinine và BUN được tìm thấy là bất thường hoặc nếu bạn có một bệnh tiềm ẩn, chẳng hạn như tiểu đường, được nghi ngờ có ảnh hưởng đến thận, sau đó hai xét nghiệm này có thể được sử dụng để theo dõi sự tiến triển của rối loạn chức năng thận và hiệu quả điều trị. Creatinine máu và BUN cũng có thể được chỉ định để đánh giá chức năng thận trước khi một số thủ thuật, chẳng hạn như chụp cắt lớp CT scan, mà có thể yêu cầu sử dụng các loại thuốc có thể gây tổn hại thận.
Một sự kết hợp của nồng độ creatinine máu và nước tiểu có thể được sử dụng để tính toán độ thanh thải creatinin. Xét nghiệm này đo lường hiệu quả thận của bạn, lọc các phân tử nhỏ như creatinine trong máu của bạn như thế nào.

Ý nghĩa xét nghiệm

Bình thường:

- Nồng độ creatinin huyết tương (huyết thanh): 55 – 110 mmol/l.
- Nước tiểu: 8 – 12 mmol/24h (8000 – 12000 mmol/l).
 

Xét nghiệm creatinin tin cậy hơn xét nghiệm Ure vì nó ít chịu ảnh hưởng bởi chế độ ăn, nó chỉ phụ thuộc vào khối lượng cơ (ổn định hơn) của cơ thể.

- Tăng creatinin (và Ure) nói lên sự thiểu năng thận, giảm độ lọc của cầu thận và giảm bài tiết của ống thận.

- Trong lâm sàng, người ta thường tính toán độ thanh lọc creatinin của thận để đánh giá chức năng lọc của thận.

  • Bình thường: Độ thanh lọc của creatinin = 70 – 120 ml/phút
  • Bệnh lý: độ thanh lọc creatinin giảm
  • Thiểu năng thận: mức độ giảm của độ thanh lọc creatinin tỷ lệ thuận với mức độ thiểu năng thận, nó phản ánh tổn thương cầu thận.
  • Viêm cầu thận cấp và mạn tính.
  • Viêm bể thận – thận mạn; viêm bể thận – thận tái phát.
  • Nhiễm Ure huyết (Ccre giảm mạnh).
  • Thiểu năng tim.
  • Cao huyết áp ác tính.
  • Dòng máu qua thận giảm, giảm áp lực lọc cầu thận.
  • Độ thanh lọc creatinin phản ánh đúng chức năng lọc cầu thận. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là ở điều kiện bệnh lý, trong quá trình tiến triển của suy thận, khi nồng độ creatinin máu cao thì có sự bài tiết một phần ở ống niệu, hoặc khi thiểu niệu, lưu lượng nước tiểu giảm thì bị tái hấp thu.

3. Xét nghiệm ALT & AST

ALT và AST là hai loại enzyme được tìm thấy chủ yếu ở các tế bào của gan và thận, một lượng nhỏ hơn của nó cũng được tìm thấy trong cơ tim và cơ bắp. Ở người khỏe mạnh, mức độ ALT và AST trong máu thấp. Khi gan bị hư hỏng, ALT và AST được phóng thích vào trong máu, nó thường tăng trước khi xảy ra các triệu chứng, tăng rõ ràng nhất là khi có tổn thương gan, chẳng hạn như vàng da. Điều này làm cho ALT và AST là hai thử nghiệm có ích để phát hiện tổn thương gan.
Một số nguyên nhân gây ra tổn hại cho các tế bào gan, dẫn đến sự gia tăng nồng độ ALT và AST. Xét nghiệm ALT và AST có ích nhất trong việc phát hiện các loại thuốc hoặc các chất khác gây độc cho gan. Tuy nhiên, ALT và AST không phải chỉ để phát hiện bệnh của gan, mức độ tăng nhẹ và tăng vừa cũng có thể được nhìn thấy trong các nguyên nhân gây ảnh hưởng đến các bộ phận khác của cơ thể.

Chỉ định

- Người có tiền sử tiếp xúc với virus viêm gan
- Những người nghiện rượu nặng
- Cá nhân có gia đình có tiền sử bệnh gan
- Người dùng thuốc mà thuốc có thể làm rối loạn chức năng gan
- Người thừa cân, hoặc có bệnh tiểu đường
- Theo dõi điều trị người bị bệnh gan.

Ý nghĩa xét nghiệm:

- Giá trị tham chiếu: Bình thường: ALT: < 30 U/L, AST: < 30 U/L

- Mức độ ALT và AST rất cao (hơn 10 lần mức bình thường cao) thường là do viêm gan cấp tính, do bị nhiễm virus. Trong viêm gan cấp tính, mức ALT và AST thường ở mức cao kéo dài khoảng 1-2 tháng, và có thể trở lại bình thường sau 3-6 tháng. Mức ALT va ASTcũng có thể tăng cao rõ rệt khi sử dụng thuốc hoặc các chất khác gây độc cho gan, nguyên nhân gây giảm lưu lượng máu (thiếu máu cục bộ) cho gan.

- Mức ALT và AST thường không tăng cao trong viêm gan mãn tính, cao ít hơn 4 lần mức bình thường cao. Trong viêm gan mãn, mức ALT và AST cũng có thể bình thường hay tăng nhẹ, do đó, các bác sĩ thường sẽ ra lệnh kiểm tra thường xuyên để xem diễn tiến của bệnh. Các nguyên nhân khác của làm ALT và AST tăng vừa phải, gồm các nguyên nhân tắc nghẽn đường mật, xơ gan (thường là hậu quả của viêm gan mạn tính hoặc tắc nghẽn ống mật), và có khối u trong gan.

- AST và ALT cũng có thể tăng lên trong cơn đau tim và chấn thương cơ, mức độ AST tăng nhiều hơn là ALT

- Trong hầu hết các loại bệnh gan, mức độ ALT tăng cao hơn AST, và tỷ lệ AST / ALT (bình thường là 1,2) sẽ thấp. Có một vài ngoại lệ,tỷ lệ AST / ALT thường tăng trong viêm gan do rượu, xơ gan, chấn thương cơ bắp, và trong ngày đầu tiên của hai bệnh viêm gan cấp tính hoặc thương tích do tắc nghẽn ống mật.

- ALT thường được thực hiện cùng với thử nghiệm AST hoặc như là một phần của một bảng thử nghiệm về chức năng gan

Print
1982 Rate this article:
No rating

Leave a comment

Name:
Email:
Comment:
Add comment

Name:
Email:
Subject:
Message:
x
Copyright 2024 by AGAPE MEDICAL GROUP Terms Of Use Privacy Statement
Back To Top